Thứ Tư, 13 tháng 11, 2019

TESTING

Kiểm tra và khảo thí ngôn ngữ (language testing and assessment) là một lĩnh vực chuyên môn sâu, liên quan chặt chẽ đến ngôn ngữ học và phương pháp giảng dạy. Tùy mục đích kiểm tra (purpose of testing), các bài thi trong tiếng Anh có thể tạm được chia thành các dạng sau: 1. “Proficiency test” (bài kiểm tra sự thông thạo): bài thi này kiểm tra năng lực ngôn ngữ chung (global competence) của một thí sinh. Không cần biết thí sinh học theo chương trình gì, giáo trình gì, phương pháp học thế nào v.v. miễn thí sinh đạt được mức điểm nhất định thì sẽ dựa vào đó mà quy ra năng lực ngôn ngữ. Người ta dựa vào những đặc điểm cốt lõi của ngôn ngữ và những yêu cầu thực tế từ học tập, công việc hoặc cuộc sống đối với ngôn ngữ đó mà xây dựng bài thi. Những bài thi tiếng Anh chuẩn hóa như IELTS™, TOEFL® iBT hay PTE Academic™ thường là dạng “proficiency test” mang tính quốc tế. 2. “Achievement test” (bài kiểm tra kiến thức học được): bài thi này thường là bài thi cuối khóa học hoặc cuối học kì. Bài thi kiểm tra xem học viên đạt được những mục tiêu học tập trong khóa học hay không, có đủ lượng từ vựng hay không, có nắm được ngữ pháp hay không, vận dụng kĩ năng đọc đến mức nào v.v. Dạng “achievement test” được xây dựng dựa vào chương trình học và phương pháp giảng dạy. 3. “Progress test” (bài kiểm tra sự tiến bộ): cũng có đặc điểm khá giống “achievement test” nhưng bài thi này thường được triển khai liên tục trong khóa học, kiểm tra xem học viên học hành thế nào, giáo viên dạy hiệu quả không, để từ đó mà điều chỉnh cho phù hợp. Tương tự, “progress test” được xây dựng dựa vào chương trình học và phương pháp giảng dạy. 4. “Diagnostic test” (bài kiểm tra xem mạnh yếu chỗ nào): Ở quy mô nhỏ hơn, ta có bài thi “diagnostic test” . Dùng bài kiểm tra này để đánh giá xem học viên có thế mạnh và điểm yếu gì, để từ đó mà có điều chỉnh giáo trình, chương trình, chỗ nào nên nhấn mạnh, chỗ nào có thể lướt qua. 5. “Placement test” (bài kiểm trình độ đầu để xếp lớp): thường dùng để xem năng lực hiện tại của học viên thế nào, từ đó mà chọn giáo trình, chương trình và cấp lớp phù hợp. Chất lượng của bài thi phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tôi cho rằng, nền tảng kiến thức về ngôn ngữ học, tâm lý giáo dục, và lý thuyết phương pháp giảng dạy là những yếu tố chính; và sự kết hợp, vận dụng những yếu tố này sẽ quyết định chất lượng của bài thi. Thực tế, người làm công tác khảo thí và người trực tiếp ra đề thi phải là dạng bậc thầy trong những lĩnh vực này. Ra đề thi là một công việc chuyên môn sâu, thậm chí, phải tách bạch nó với việc giảng dạy. Không có chuyên môn hóa thì khó có thể đạt chất lượng. Hiển nhiên, muốn kiểm tra và đánh giá người khác, chúng ta phải ở một trình độ rất cao. Thực tế chứng kiến có những đề thi rất chấp vá, lấy chỗ này một miếng, lấy chỗ kia một miếng ráp lại. Cho nên, những đề thi cuối kì tại các trường học nói chung, chất lượng rất “phiêu lưu” và rất “nội bộ”. Thực tế xã hội và nghề nghiệp cần cái khác, trường học lại kiểm tra những cái khác. Khách quan mà nói, nhiều khi việc chương trình học đã có nhiều vấn đề, giảng dạy lại có những vấn đề, và dựa vào đó để ra đề kiểm tra thì càng sinh ra những vấn đề. Chưa kể, năng lực ngôn ngữ và chuyên môn của đội ngũ cũng chưa được chuẩn hóa. Cho nên, nếu chúng ta không thể chọn được cái tốt nhất thì hãy chọn cái ít dỡ nhất. Đó là, riêng trong việc học thực hành tiếng (các kĩ năng nghe – nói – đọc – viết), sử dụng các bài thi chuẩn hóa quốc tế có bộ tiêu chuẩn ngôn ngữ đáng tin cậy làm định hướng và tiêu chí đánh giá việc giảng dạy và học tập là điều phải làm. Tôi gọi đó là “test-based teaching & learning” hay “teaching & learning the test”. Xây dựng chương trình giảng dạy trên nền tảng ngôn ngữ học thì việc phân tích và vận dụng những bài thi chuẩn hóa để phục vụ công tác khảo thí là con đường nhanh nhất để hướng đến tiêu chuẩn quốc tế. Trích Thầy La Thành Triết